NHẬP MÔN CHÍNH TRỊ MỸ: HỆ THỐNG LẬP PHÁP HOA KỲ (Phần 1)
Quốc Hội Hoa Kỳ quyền lực cỡ nào?
Chỉ 77 ngày, tức là chưa đầy 3 tháng nữa, cả thế giới sẽ cùng mong ngóng và hóng chờ một trong những sự kiện quan trọng bậc nhất của năm 2024: Bầu cử tổng thống Mỹ. Cuộc bầu cử năm nay có lẽ là một trong những cuộc bầu cử kịch tính và sẽ có sự ảnh hưởng to lớn đến nhiều sự kiện ở tương lai đối với lịch sử nhân loại. Nhằm hâm nóng cho cuộc bầu cử Mỹ, mình xin mạn phép được gửi anh em series “Nhập môn chính trị Mỹ” với mong muốn được phổ cập kiến thức cũng như giải đáp các thắc mắc thường gặp của anh em khi đề cập đến hệ thống chính trị. Mong rằng anh em sẽ đón nhận cũng như nếu có chút sai sót nhỏ về thông tin bài viết, mình rất mong nhận được sự phản hồi cũng như góp ý của anh em. Bài viết đầu tiên của series sẽ nói về Hệ thống lập pháp Hoa Kỳ, một trong ba nhánh của “tam quyền phân lập” của Mỹ.
Bối cảnh lịch sử ra đời của Quốc hội Mỹ - The Great Compromise of 1787
Vào thuở khai sinh của nền cộng hòa Hoa Kỳ non trẻ, nền móng ban đầu của hệ thống lập pháp chính là Điều khoản hợp bang (Article of Federation 1777). Văn kiện này cũng có thể coi là hiến pháp đầu tiên của Hoa Kỳ. Một vài năm sau khi được thông qua (1781), các hạn chế của văn kiện bắt đầu bộc lộ rõ, ví dụ như sự thiếu liên kết chặt chẽ giữa các tiểu bang, các tiểu bang in tiền bữa bãi, và sa lầy trong chiến tranh thương mại với nhau,... Nhận thấy tình hình không khả quan, những người lãnh đạo của nền cộng hòa non trẻ lúc đó đã quyết định triệu tập Hội nghị Lập Hiến năm 1787 (Constitutional Convention of 1787), để thay đổi lại Điều khoản hợp bang, nhằm cứu vãn tình hình.
Trong buổi Hội nghị Lập Hiến tại Philadelphia vào mùa xuân năm 1787, mục tiêu ban đầu là sửa đổi Điều khoản hợp bang, nhưng các đại diện từ các bang đã quyết định thống nhất loại bỏ Điều khoản hợp bang và thay thế bằng một hệ thống lập pháp khác. Ở trong Điều khoản hợp bang cũ, hệ thống lập Pháp Mỹ là chế độ nhất viện, nói dễ hiểu là chỉ có một viện trong Quốc hội, giống với Quốc hội ở Việt Nam ngày nay.
Các bang đều sẽ có một số lượng đại diện như nhau trong Quốc hội thời đó, và điều này đã gây ra một cuộc tranh luận căng thẳng giữa các bang dông dân số và các bang ít dân số. Các bang đông dân, cụ thể ví dụ là Virginia đã đề xuất “Phương án Virginia” (Virginia Plan). Tóm tắt cho dễ hiểu thì bang nào nhiều dân thì sẽ có nhiều đại diện trong Quốc hội và sẽ Quốc hội sẽ là chế độ lưỡng viện (hai viện đại diện cho Quốc hội).
Các bang ít dân ngay lập tức phản ứng, trong đó cụ thể là New Jersey đã đưa ra phương án thay thế. Họ đề xuất Phương án New Jersey, trong đó Quốc hội sẽ là đơn viện và mỗi bang sẽ sở hữu một số lượng đại diện như nhau trong Quốc hội.
Để giải quyết mâu thuẫn và khúc mắc trên, phương án Thoả hiệp Connecticut (The Great Compromise of 1787) đã được đề xuất và chấp thuận. Trong phương án này, Quốc hội sẽ được đại diện bởi hai viện là Thượng viện và Hạ viện. Trong Hạ viện, bang nào có càng nhiều dân thì sẽ có càng nhiều đại diện và trong Thượng Viện, các bang đều sẽ chỉ có hai đại diện. Phương án này thỏa mãn 2 cả hai đề xuất từ các bang đông dân và ít dân, qua đó hệ thống lập pháp lưỡng viện của Hoa Kỳ đã được hình thành và tồn tại đến ngày nay.


Cấu trúc cơ bản và quyền lực của Quốc hội Mỹ.
Cấu trúc cơ bản
Như anh em đã đọc ở trên, Quốc hội Mỹ là chế độ lưỡng viện, tức là có hai viện đại diện cho Quốc hội. Đó chính là Thượng viện (Senate) và Hạ viện (House of Representative). Một số thông tin cơ bản về sự khác nhau của hai viện anh em có thể nhìn dưới ảnh sau.
Hạ viện thì có 435 thành viên, trong khi Thượng viện có 100 người (chia đều mỗi bang 2 người, 2x50 = 100). Độ dài nhiệm kỳ của thành viên Hạ viện là 2 năm, trong khi của Thượng viện là 6 năm. Thành viên Hạ viện phải có độ tuổi tối thiểu là 25, còn Thượng viện là 30
Đại diện các bang trong Thượng viện sẽ được gọi là Thượng nghị sĩ, còn trong Hạ viện sẽ là Hạ nghị sĩ. Ở Mỹ, cứ mỗi 10 năm Cục điều tra dân số liên bang (U.S. Census Bureau) sẽ kiểm kê dân số các vùng và chia các vùng bầu cử đại diện cho quốc hội. Quy trình này được gọi là “redistricting”.
Quyền lực của Quốc hội Mỹ
Enumerated power:
Hiểu một cách đơn giản, đây là các quyền hạn được liệt kê cụ thể ở trong Điều 1, Khoản 8 của Hiến Pháp Hoa Kỳ. Anh em có thể đọc qua thử ở đây: Article I Section 8 | Constitution Annotated | Congress.gov | Library of Congress
Ví dụ điển hình nhất chính là việc Quốc hội được phép đánh thuế và thu thuế. Đây có thể được coi là một trong các quyền hạn quan trọng nhất của Quốc hội. Nếu như không có tiền từ việc đánh thuế, việc thực thi các dự luật hay chỉnh đổi các dự thảo, văn kiện khác sẽ rất khó khăn. Việc thu thuế hay đánh thuế còn được biết tới qua cụm từ “the power of the purse”, dịch thô là “sức mạnh đồng tiền”. Quốc hội Mĩ là cơ quan kiểm soát nguồn tin của Chính quyền Liên bang. Chức năng này khá giống với chức năng của Chính phủ ở Việt Nam chứ không phải Quốc hội Việt Nam.
Một số ví dụ khác cho enumerated power: Thành lập quân đội, hải quân; tuyên bố chiến tranh; hình thành luật cư trú và luật nhập tịch, v.v.
Ngoài ra, một số quyền hạn được ghi trực tiếp trong Hiến pháp Hoa Kỳ có vai trò theo dõi và kiểm tra hai nhánh còn lại của “tam quyền phân lập” (check and balance). Quốc hội có quyền kết tội tổng thống Hoa Kỳ nếu phát hiện ra sai phạm (kiểm soát nhánh hành pháp). Ví dụ khác gần hơn về cách Quốc hội Hoa Kỳ kiểm soát quyền lực của Tổng thống chính là Tu chính án 22, điều khoản giới hạn một tổng thống Hoa Kỳ chỉ được phép làm tối đa 2 nhiệm kỳ.
Implied power:
Đây là những quyền hạn không được trực tiếp ghi trong hiến pháp Hoa Kỳ, nhưng sẽ được ngầm hiểu, hay nói cách khác là suy ra từ những quyền hạn được trực tiếp ghi trong hiến pháp Hoa Kỳ.
VD: Điều chỉnh luật nhập cư (Suy ra từ luật nhập tịch được ghi trong hiến pháp)
Inherent power:
Giải thích dễ hiểu, “inherent power” là các quyền hạn được kích hoạt khi nó ảnh hưởng đến sự sống còn của quốc gia. Anh em có thể hiểu ví dụ như quyền kiểm soát biên giới chẳng hạn, quyền được kết nạp thêm tiểu bang mới,...
3. Vai trò của đảng phái và hệ thống các ủy ban trong Quốc hội Mỹ
Vai trò của đảng phái trong Quốc hội Mỹ
Như anh em cũng đã thường biết, hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa phân chia quyền lực chính trị Mỹ và ở trong Quốc hội cũng vậy.
Ở trong Hạ Viện, hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa sẽ bầu ra người lãnh đạo của đảng qua các hội nghị House Democratic Conference và House Republican Conference. Sau khi xác định được người lãnh đạo của đảng mỗi bên, các Hạ nghị sĩ của hai đảng (và những người không đảng phái) sẽ cùng nhau bầu ra Speaker of House (Chủ tịch Hạ viện). Đảng của chủ tịch Hạ viện sẽ được gọi là đảng đa số (majority) và đảng còn lại là đảng thiểu số (minority). Chủ tịch Hạ viện cũng là vị trí thứ hai thay thế Tổng thống sau Phó Tổng Thống trong trường hợp khẩn cấp. Vai trò của chủ tịch Hạ viện là rất quan trọng, ta có thể kể đến các nhiệm vụ như là: Chỉ định các dự thảo, đề xuất cho các ủy ban (committee) dưới cấp, chủ trì các cuộc họp giữa Hạ viện và Thượng viện,…
Ở trong Thượng viện, người đứng đầu lý thuyết sẽ là Phó tổng thống Hoa Kỳ, tuy nhiên người này sẽ chỉ bầu trong trường hợp hai đảng đa số và thiểu số không chọn lựa đảng nào sẽ nắm đa số. Ngoài ra các Thượng nghị sĩ còn được bầu “President Pro Tempore”. Chức vụ này thường sẽ được Hạ nghị sĩ đảng đa số cao tuổi nhất nắm quyền, tuy nhiên đây chỉ là chức vụ hữu danh vô thực, quyền hạn gần như không có.
Lãnh đạo đảng đa số (majority leader) sẽ là người đứng đầu Thượng viện.
Hệ thống các ủy ban trong Quốc hội Mỹ
Với 535 thành viên của Hạ viện và Nghị viện, Quốc hội Mỹ phải quản lý cũng như xử lý hàng tá vấn đề từ an ninh, quốc phòng, nông nghiệp, kinh tế,… của Hoa Kỳ. Vì vậy, Quốc hội phải thông qua hệ thống các ủy ban “committe system” để kiểm soát và xử lý các vấn đề trên. Trong Quốc hội Mỹ, có các loại ủy ban sau:
Standing committee - Ủy ban thường trực:
Đây là nhóm các ủy ban quan trọng nhất của Quốc hội Mỹ. Các ủy ban thường trực là nơi đầu tiên xem xét và phê duyệt liệu một dự luật có được xem xét để thông qua hay không. Ước tính chỉ có dưới 10% dự luật qua được vòng xem xét từ các ủy ban thường trực để dến vòng xem xét tiếp theo. Mỗi viện sẽ có một ủy ban riêng của mình. Có hai nhóm nhỏ thuộc ủy ban thường trực:
Authorizing committees: Các ủy ban phát triển và ủy quyền các chính sách cụ thể thông qua các quy trình lập pháp. VD: Ủy ban Ngoại Giao Hạ viện (House Committee on Foreign Affairs) và Uỷ ban Ngoại Giao Thượng Viện (Senate Committee on Foreign Relations), Ủy ban Giáo dục và Lao động Hạ Viện (House Committee on Education and Labor) và Uỷ ban Y tế, Giáo dục, Lao động, và Lương hưu Thượng viện (Senate Committee on Health, Education, Labor, and Pensions)
Power committees: Các ủy ban phụ trách việc thu thuế, chi tiêu và sử dụng ngân sách cơ quan lập pháp. VD: Ủy ban tài chính Thượng viện “Senate Finance Committee“
Joint committee - Ủy ban kết hợp:
Các thành viên của hai viện cùng tham gia ủy ban này để phụ trách các vấn đề ví dụ như kinh tế hay chính sách thuế. Tuy nhiên ủy ban kết hợp không có thầm quyền cố định như các ủy ban thường trực, họ chỉ có vai trò tư vấn và tham mưu.
Conference committee - Ủy ban hội nghị:
Ủy ban hội nghị sẽ được thành lập để giải quyết các dự luật được thông qua bởi hai viện, nhưng khác nhau về các điều khoản cụ thể.
Special, or select committee - Ủy ban đặc biệt:
Ủy ban đặc biệt thường được chỉ định để phụ trách một vấn đề đặc biệt nào đó trong một khoảng thời gian cụ thể. Sau khi hết nhiệm vụ, ủy ban cũng sẽ ngừng hoạt động.
VD: Church Committee 1975 được thành lập bởi Thượng nghị sĩ Frank Church để diều tra về những sai phạm cũng như lạm dụng quyền lực của FBI, CIA.
Vai trò của chủ tịch các Ủy ban trong Quốc hội Mỹ:
Chủ tịch các ủy ban thường trực (standing committee) nắm một vai trò rất quan trọng trong Quốc hội. Họ được quyền kiểm soát ngân sách các ủy ban và lựa chọn thời gian bàn bạc, xem xét khi nào thông qua một dự luật. Họ có thể triệu tập một cuộc họp mà không cần sự tham gia của thành viên đảng thiểu số cũng như hoãn họp.
Chính vì nắm quyền lực to lớn như vậy, Hạ viện Mỹ không cho phép một hạ nghị sĩ làm chủ tịch ủy ban của một ủy ban trong 6 năm liên tiếp.
Kỳ tới: Một dự luật được thông qua như thế nào? Quy trình thông qua dự luật (legislative process) của Quốc Hội Mỹ
Tài liệu tham khảo:
Jillson, Calvin C. American Government: Political Development and Institutional Change. Eleventh edition. New York: Routledge, 2021.
Krutz, Glen S., and Sylvie Waskiewicz. American Government 3e. [Third edition]. Edited by Prosper M. Bernard. Houston, Texas, Victoria, B.C.: OpenStax, Rice University; BCcampus, BC Open Textbook Project, 2021.
Connecticut Compromise | Date, Context, & Key Details | Britannica
Church Committee - Wikipedia
The Legislative Branch | The White House
Articles of Confederation (1777) | National Archives
Overview of Spending Clause | Constitution Annotated | Congress.gov | Library of Congress
Cảm ơn anh vì đã comment nha! Mong anh đón chờ số tiếp theo của tụi em, tập trung nói về quy trình làm luật
cảm ơn bạn vì bài thông tin súc tích và đầy đủ!